Tụ cầu vàng gây bệnh viêm da |
Có loài bình thường
là vi sinh vật bảo vệ cho da, có loài xâm nhập qua các vết xây xước của
da mà gây bệnh cho da. Ở mỗi người, số lượng vi khuẩn cư trú thay đổi
qua thời gian tùy thuộc vào khuynh hướng tồn tại của chúng.
Bệnh chốc
Chốc là bệnh nhiễm trùng nông ở da. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng 90% trường hợp là ở lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo. Bệnh thường gây nên do liên cầu, tụ cầu hoặc phối hợp cả hai.
Chốc là bệnh nhiễm trùng nông ở da. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng 90% trường hợp là ở lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo. Bệnh thường gây nên do liên cầu, tụ cầu hoặc phối hợp cả hai.
Biểu hiện
Bắt
đầu là dát đỏ xung huyết, nhanh chóng tạo thành bọng nước. Bọng nước
nhăn nheo, xung quanh có quầng đỏ, sau vài giờ thành bọng mủ đục từ thấp
lên cao. Vài giờ hoặc vài ngày sau các bọng nước dập vỡ, đóng vảy tiết
màu vàng nâu giống màu mật ong. Sau khoảng 7 - 10 ngày, vảy tiết bong đi
để lại dát hồng hoặc dát thâm, tồn tại một thời gian ngắn, mất đi không
để lại sẹo.
Vị
trí thường gặp ở mặt, nhưng có thể bất kì chỗ nào kể cả lòng bàn tay,
chân. ở đầu vảy tiết làm tóc bết lại. Hiếm khi niêm mạc bị tổn thương
nhưng cũng có thể có.
Toàn
thân: rất hiếm khi sốt, trừ trường hợp thương tổn chốc toàn thân hoặc
có biến chứng. Bệnh nhân có thể ngứa gãi làm thương tổn lan rộng chàm
hóa hoặc lan sang vùng da khác.
Căn nguyên
Nguyên
nhân gây bệnh chủ yếu là liên cầu và tụ cầu. Vi khuẩn xâm nhập qua da
qua các sang chấn nhỏ vào lớp sừng và lớp gai, nhân lên, tiết độc tố làm
tan rã những dây liên kết giữa các tế bào gai, huyết thanh tụ lại tạo
thành bọng nước dưới lớp sừng.
Các
yếu tố như tuổi nhỏ, thời tiết nóng ẩm, mùa hè, nơi ở chật chội, vệ
sinh kém là những điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển. Ngoài ra các
bệnh phối hợp như chấy, rận, ghẻ, herpes, côn trùng cắn, viêm da cơ
địa... cũng là những yếu tố làm cho bệnh dễ phát sinh và phát triển.
Tiến triển
Chốc
là bệnh lành tính. Nếu phát hiện và điều trị tích cực thì 7 – 10 ngày
khỏi, ít có tái phát và biến chứng. Tuy nhiên có thể gặp các biến chứng:
chàm hóa, chốc loét, nhiễm trùng huyết, viêm cầu thận cấp....
- Điều trị
-Tại chỗ:
Làm bong vảy tiết bằng đắp dung dịch NaCl 9 phần nghìn hay thuốc tím 1/10.000 hoặc dung dịch Jarish. Nếu vảy dày dùng mỡ kháng sinh. Khi vảy tiết đã bong đi, chấm vào thương tổn dung dịch có màu như Milian hoặc Castellani. - Toàn thân: dùng khi thương tổn lan rộng, nặng, dai dẳng và có nguy cơ biến chứng viêm cầu thận cấp. Có thể dùng kháng sinh nhóm b - lactam, cephalosporine, macrolide, quinolone, kháng sinh penicilline bán tổng hợp.
Phòng bệnh
Tắm
rửa vệ sinh ngoài da, cắt tóc, cắt móng tay. Chăm sóc cho trẻ nhỏ, nhất
là sau khi mắc các bệnh do virus hoặc sởi. Tránh ở lâu những nơi ẩm
thấp, thiếu ánh sáng. Điều trị sớm và tích cực, tránh chà xát, gãi nhiều
gây biến chứng.
Bệnh viêm nang lông
Là
phản ứng viêm của một hoặc nhiều nang lông ở bất kì vị trí nào trên cơ
thể, trừ vùng bán niêm mạc, lòng bàn tay, bàn chân. Nếu thương tổn ở
vùng da đầu, râu, lông nách, lông mu gọi là Sycosis (viêm chân tóc). Nếu thương tổn ở vùng lông tơ gọi là viêm nang lông.
- Biểu hiện
+ Viêm cổ nang lông:
mụn mủ nhỏ như hạt kê rất nông ở lỗ chân lông, màu vàng nhạt, dễ vỡ để
lại vảy mủ hoặc vảy lẫn máu. Bệnh diễn biến thành từng đợt và tự lành
sau vài ngày, không để lại sẹo. Vị trí điển hình là ở mặt, da đầu, lông
mu, lông nách, nếp bẹn, hai cẳng chân.
+ Viêm nang lông sâu: viêm xâm lấn vào tận cấu trúc nang, khi khỏi có thể tạo thành sẹo lồi hay sẹo teo da, rụng tóc.
- Căn nguyên
Phần
lớn là do tụ cầu vàng ký sinh ở trên da, trên các lỗ chân lông, nhưng
có thể do một số vi khuẩn khác như vi khuẩn Gram âm, Enterobacter
Klebsiella, Proteus, Pseudomonas aeruginosa hay do nấm men (Candida hay
Pityrosporum), nấm sợi hoặc virus.
Điều trị
- Tại chỗ: Không được nặn mụn mủ mà nên chấm dung dịch cồn iot 5% hoặc dung dịch betadin.
-Toàn thân: Có thể uống kháng sinh nhóm b-lactam, cephalosporine, macrolid như cloxacilin hoặc erythromycin.
- Phòng bệnh
Loại bỏ chấn thương tại chỗ (không gãi, không mặc quần áo quá chật, tránh xây xước khi cạo râu...). Điều
trị bệnh phối hợp như tiểu đường, giảm miễn dịch.... Rửa tay, giặt quần
áo bằng xà phòng tiệt khuẩn (VD: xà phòng lifebuoy, Betadin skin
cleanser...). Vệ sinh đúng cách để dự phòng tổn thương lan tỏa và tồn
lưu. Nếu tổn thương ở vùng râu thì phải thay dao cạo và cách cạo râu.
Nhọt
Là thuật ngữ dùng để chỉ thương tổn viêm nang lông sâu, viêm quanh nang lông có hoại tử vùng trung tâm tạo nên ngòi màu vàng.
Bệnh
nhọt rất thường gặp và thường gây ra do tụ cầu vàng khu trú trên da.
Khi nang lông bị tổn thương, vi khuẩn sẽ xâm nhập sâu vào nang lông và
tổ chức dưới da.
Nhọt
có thể xuất hiện bất cứ trên vùng nang lông nào của cơ thể, tuy nhiên
vị trí thường gặp nhất là mặt, cổ, hố nách, mông, đùi và những vùng da
băng ẩm kéo dài.
Biểu hiện lâm sàng
* Nhọt:
Tổn thương ban đầu là cục cứng, đỏ, nóng, đau, khu trú ở nang lông, ở
giữa nhọt là một đốm trắng (ngòi). Sau 1 vài ngày nhọt trở nên mềm và vỡ
mủ làm thoát ngòi ra ngoài. Khi đó bệnh nhân giảm đau, giảm sưng đỏ.
Đa số bệnh nhân chỉ có 1 đến 2 nhọt. Vị trí thường gặp ở vùng có lông
đặc biệt vùng cọ sát hoặc ra mồ hôi nhiều như cổ, nách, mông.
Nhìn
chung nhọt không có triệu chứng toàn thân. Một người có nhiều nhọt (5 -
7 cái) hoặc nhọt ở trẻ con có thể kèm theo sốt, albumin niệu.
* Nhọt cụm:
là nhọt nhưng viêm nặng hơn, lan rộng hơn, sâu hơn do nhiều nhọt tạo
thành. Vị trí thường ở gáy, lưng, đùi. ở gáy, lưng nhọt cụm còn được gọi
là hương sen, hậu bối. Bệnh nhân thường có sốt, mệt mỏi và rất đau, có
thể có albumin niệu.
* Đinh râu: cũng là nhọt nhưng khu trú ở vùng có râu. Đinh râu rất dễ đưa đến viêm xoang tĩnh mạch hang và nhiễm trùng huyết.
Nguyên nhân gây bệnh nhọt và các yếu tố nguy cơ
Nguyên nhân chủ yếu gây bệnh nhọt là tụ cầu vàng ( Staphylococcus aureus).
Tuy nhiên, nhọt cũng có thể gây nên do các vi khuẩn khác hoặc nấm. Da
bị tổn thương do chà xát, cào gãi hoặc tăng tiết mồ hôi, viêm da, nhiễm
nấm là cửa ngõ cho việc xâm nhập của vi khuẩn.
Thuật ngữ bệnh nhọt nhằm chỉ một người bị nhọt tái đi tái lại nhiều lần.
Yếu tố thuận lợi: nghiện rượu, suy dinh dưỡng, tiểu đường, chàm cơ địa, suy giảm miễn dịch...
Tiến triển và tiên lượng
Nhọt tuy là một bệnh nhiễm khuẩn nhưng nói chung lành tính. Bệnh sẽ
khỏi trong vòng 3 ngày đến 1 tuần. Một số người nhất là người ra mồ hôi
nhiều, vệ sinh da kém hoặc có bệnh tiểu đường, bệnh hệ thống, bệnh suy
giảm miễn dịch... có thể bị nhọt tái phát nhiều lần và có thể có diễn
biến phức tạp.
Nhọt, nhọt cụm có thể có biến chứng nhiễm khuẩn huyết, viêm cầu thận.
Những tổn thương ở mặt, mũi (đinh râu) dễ gây viêm tắc xoang tĩnh mạch
hang, áp xe não, viêm nội tâm mạc cấp, viêm xương - tủy xương...
Sự xâm
nhập này có thể xảy ra bất kì lúc nào và không thể tiên đoán trước được.
Vì vậy trường hợp nhọt to và sâu, không được tự nặn phá nhọt ở nhà làm
vi khuẩn dễ xâm nhập vào máu gây nhiễm khuẩn huyết.
Điều trị
Có
thể uống kháng sinh toàn thân như penicilin V người lớn 2 - 4 triệu
UI/ngày trong 7 - 10 ngày hoặc uống amoxycilin người lớn 1,5g/ngày.
Khi nhọt chín nên rạch tháo mủ cho nhọt mau lành và không bị tái phát.
Khi
thương tổn nhiều, lan tỏa, hậu bối, đinh râu kèm theo viêm mạch bạch
huyết, viêm mô tế bào hay trên cơ địa người đái đường, bị ở vùng
mặt....: cần khám và điều trị theo hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa.
Phòng bệnh
Vệ
sinh sạch sẽ, tránh chấn thương (không gãi, không chà xát), bớt ăn
ngọt, ăn đủ chất đạm, bổ sung vitamin A, C. Loại bỏ các yếu tố thuận
lợi như tiểu đường, suy dinh dưỡng, béo phì, suy giảm miễn dịch bao gồm
cả HIV/AIDS... Khi bị nhọt, giặt sạch đồ dùng cá nhân bằng xà phòng tiệt
khuẩn với nước nóng.
PGS.TS Trần Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét